Bia Vĩnh Lăng ghi, từ đời Lê Hối “đời đời làm quân trưởng một phương”. Lam Sơn thực lục (bản trùng san của Hồ Sĩ Dương), Đại Việt thông sử, Hoàng Lê ngọc phả… chép Lê Lợi làm “phụ đạo Khả Lam”. Trong Hội thề Lũng Nhai, Lê Lợi cũng tự xưng là “phụ đạo Khả Lam”.
Lê Lợi là ai?
Lam Sơn hay Khả Lam là phiên âm Hán – Việt tên đất cổ của vùng này là Cham: núi Cham, kẻ Cham, làng Cham. Trong truyền thuyết dân gian, nhân dân địa phương thường gọi Lê Lợi là “đạo Cham” và nói “nội Cham ngoại Chúa” để chỉ quê hương Lê Lợi (quê nội làng Cham tức Lam Sơn, quê ngoại làng Chúa tức Chủ Sơn). Danh hiệu “quân trưởng một phương” hay “phụ đạo” chúng tỏ Lê Lợi cũng như ông cha là người có thế lực, uy tín và ảnh hưởng trong vùng.
Như vậy Lê Lợi là một hào trưởng thuộc tầng lớp địa chủ thứ dân, một tầng lớp xã hội đang phát triển mạnh mẽ lúc bấy giờ. Lê Lợi thừa hưởng của ông cha một trang trại khai hoang khá lớn ở vùng Lam Sơn. Trong nhà có một số nô tỳ phục dịch (Bia Vĩnh Lăng gọi là nô lệ) và xung quanh có nhiều nông dân tá điền hay nông dân lệ thuộc (Bia Vĩnh Lăng gọi là chúng). “Quân trưởng” hay “phụ đạo” không phải là chức tước của triều đình, nên trong quan niệm phân biệt đẳng cấp lúc đó, họ vẫn thuộc tầng lớp “thứ dân” (hay bách tính).
Lê Lợi sinh ra và lớn lên vào những thập kỷ cuối thế kỷ XIV, đầu thế kỷ XV. Đó là một thời kỳ xã hội đang trải qua nhiều biến động sâu sắc và đất nước đang đứng trước một thử thách hiểm nghèo.
Vương triều Trần, sau một thời hưng thịnh với chiến công bình Nguyên rực rỡ hào khí Đông A, với nhiều thành tựu xây dựng đất nước trên các mặt kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa, từ giữa thế kỷ XIV đã lâm vào tình trạng suy thoái. Mâu thuẫn giữa vương triều Trần với các tầng lớp nhân dân, chủ yếu là nông dân làng xã, và mâu thuẫn giữa tầng lóp quý tộc với tầng lớp nô tỳ trong các điền trang thái ấp trở nên gay gắt. Sự bùng nổ của những mâu thuẫn xã hội trên đã dẫn đến những cuộc khởi nghĩa của nông dân và nô tỳ vào nửa sau thế kỷ XIV.
Sự suy sụp của triều Trần gắn liền với một số biến động trong thiết chế chính trị – tư tưởng của chế độ quân chủ và trong cơ cấu kinh tế – xã hội của đất nước. Một số nho sĩ vốn là quan lại cao cấp, tiêu biểu là Lê Bá Quát, Phạm Sư Mạnh, đấu tranh chống lại ảnh hưởng của Phật giáo và chủ trương cải cách chế độ nhà Trần theo mô hình Nho giáo của Trung Quốc.
Năm 1400 triều Hồ thay thế triều Trần vào lúc các mâu thuẫn xã hội trong nước vẫn tiếp diễn gay gắt, và thêm vào đó nạn xâm lược của nhà Minh càng ngày càng đè nặng lên đất nước. Phải ghi nhận rằng, Hồ Quý Ly – người sáng lập ra vương triều Hổ – là một nhà cải cách lớn, kiên quyết và táo bạo. Những năm giữ cương vị Tể tướng của triều Trần và nhất là từ khi đứng đầu triều Hồ, Hồ Quý Ly đã ban hành một loạt cải cách về các mặt như: hạn điền, hạn nô, phát hành tiền giấy, coi trọng chữ Nôm, mở rộng giáo dục, phê phán Nho giáo và tinh thần lệ thuộc phương Bắc. Hồ Quý Ly và triều Hồ cũng kiên quyết chủ trương chống Minh, bảo vệ lãnh thổ và chủ quyền quốc gia. Hồ Quý Ly đã biểu thị tinh thần cải cách kiên quyết và tinh thần độc lập dân tộc cao.
Nhưng trước những mâu thuẫn kinh tế – xã hội phức tạp trong nước và trước yêu cầu đoàn kết toàn dân để chống giặc giữ nước thì những cải cách của triều Hồ lại bộc lộ một hạn chế lớn là chưa chú ý đến những lợi ích bức thiết của các tầng lớp nhân dân bị trị, chưa có biện pháp cố kết nhăn tâm để sẵn sàng chống ngoại xâm. Chính sách hạn điền và hạn nô chỉ nhằm tập trung đại bộ phận ruộng đất của quý tộc (trừ đại vương và trưởng công chúa), của địa chủ thứ dân (trên 10 mẫu) và nô tỳ của tư nhân (trừ số quy định theo phẩm cấp) vào tay nhà nước. Tầng lớp nô tỳ không được giải phóng thành nông dân tự do. Quyền lợi của tầng lớp địa chủ thứ dân cũng bị xâm phạm vì mức độ hạn điền dưới 10 mẫu. Trong khi đó, chế độ lao dịch và binh dịch nặng nề lại gây thêm nhiều khó khăn, khốn đốn cho đông đảo nông dân làng xã.
Như vậy là trước ba yêu cầu có mối quan hệ mật thiết với nhau: cải cách, dân tộc, dân sinh (hiểu theo nghĩa chính sách thân dân của một vương triều phong kiến) triều Hồ không đáp ứng được yêu cầu thứ ba và do đó ảnh hưởng trở lại việc thực hiện hai yêu cầu thứ nhất và thứ hai. Giữa lúc triều Hồ đang gặp khó khăn thì nhà Minh đã phát động cuộc chiến tranh xâm lược đại quy mô đối với nước ta.
Vào đầu thế kỷ XV, nhất là dưới triều Minh Thành Tổ (1403 – 1424), nhà Minh (1368 – 1644) đạt đến đỉnh phát triển cao nhất của triều đại này và trở thành một đế chế lớn mạnh nhất ở phương Đông. Lúc bấy giờ ở phía bắc Trung Quốc vẫn còn hai thế lực Mông cổ khá mạnh: người Ngõa Thích (Oirats) và Thát Đát (Tatars). Nhà Minh đã nhiều lần phải dụng binh và phải củng cố Vạn Lý Trường Thành để phòng ngự mặt bắc. về phía tây, nhà Minh muốn bành trướng sang Trung Á, Tây Tạng nhưng vấp phải đế chế Timur (Tamerlan) đang thịnh. Vì vậy khoảng cuối thế kỷ XIV đầu XV hướng bành trướng chủ yếu của đế chế Minh là các nước Đông Nam Ả và Nam Á, mà nước Đại Việt là một cửa ngõ trọng yếu. Kế hoạch xâm lược Đại Việt và hoạt động của hạm đội Trịnh Hòa là nhằm thực hiện hướng bành trướng này.
Trong vòng 28 năm, từ năm 1405 đến 1433 hạm đội Trịnh Hòa đã thực hiện 7 chuyến vượt biển xuống các nước Đông Nam Á , Nam Á và Đông Phi nhằm “diễu binh cõi ngoài, tỏ rõ sự giàu mạnh của Trung Quốc” và “tuyên chiếu thiên tử, ban cấp cho quân trưởng, không thần phục thì dùng vũ lực uy hiếp”0). Đây là một phương thức bành trướng kết hợp các biện pháp ngoại giao – chính trị – kinh tế – quân sự, buộc các nước phải khuất phục và triều cống “thiên triều Đại Minh”. Nhà Trung Quốc học phương Tây Jacques Gernet đã nhận xét đũng: “Rõ ràng nhà Minh có những mục tiêu bành trướng như Mông cổ, nhưng cách thức có thay đổi: họ không tiến hành những cuộc chinh phục đơn thuần nhằm bóc lột kinh tế, mà buộc phải thừa nhận sức mạnh và đặc quyền của đế chế Minh ở Đông Nam Á và Ân Độ Dương”).
Hạm đội Trịnh Hòa từ Phúc Kiến, vượt biển xuống Đông Nam Á, đã từng qua các nước Chămpa, Java, Palembang, Sumatra, Malaka, Xiêm, đến Ceylan, Cochin, có chuyến tới Omuz trên vịnh Persique, qua bờ biển nam Arabie, vào Hồng Hải đến Djeddah là hải cảng của La Mecque, rồi vòng xuống bờ biển Đông Phi đến Mogadiscio ở Somalie. Qua 7 lần vượt biển, hạm đội Trịnh Hòa đã qua 30 nước và đã chiếu dụ được nhiều nước phải thần phục và triều cống nhà Minh. Cũng qua đó nhà Minh khống chế con đường hàng hải quan trọng từ Thái Bình Dương sang Ấn Độ Dương, phát triển mậu dịch đối ngoại, mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc xuống vùng Đông Nam Á.
Điều cần lưu ý là nước Đại Việt nằm ngoài mục tiêu hoạt động của hạm đội Trịnh Hòa, kể cả lần vượt biển lần thứ nhất năm 1405. Đó là vì sau nhiều lần dụ dỗ và đe dọa triều Trần, Hồ không có hiệu quả, nhà Minh đã chủ trương dùng vũ lực thôn tính nước Đợi Việt. Cuộc chiến tranh xâm lược này, trong tính toán của nhà Minh, vừa nhằm cướp nước ta, vừa nhằm uy hiếp các nước Đông Nam Á, hỗ trợ cho hoạt động của hạm đội Trịnh Hòa. Đối với nước ta, nhà Minh áp dụng phương thức bành trướng cổ truyền của họ là xâm lược và đồng hóa bằng bạo lực.
Cuối năm 1406 nhà Minh huy động 80 vạn quân, trong đó có hơn 21 vạn quân chiến đấu tinh nhuệ, xâm lược nước Đại Việt. Cuộc kháng chiến do triều Hồ lãnh đạo bị thất bại sau nửa năm chiến đấu. Những sai lầm về chính trị và quân sự mà điều cơ bản là không thu phục được nhân dân, không đoàn kết được toàn dân để đánh giặc giữ nước, đã dẫn đến sự kết thúc bi thảm của triều Hồ.
Nước Đại Việt sau 5 thế kỷ (thế kỷ X đến XV) giành và giữ vững độc lập dân tộc, vươn lên trong công cuộc phục hưng văn hóa, phục hưng dân tộc, từ năm 1407 lại bị phong kiến Trung Quốc đô hộ. Trong 20 năm Minh thuộc (1407 – 1427), nhà Minh không từ bất cứ thủ đoạn nào nhằm trấn áp, hủy hoại mọi khả năng phục hồi độc lập dân tộc của nhân dân ta và vĩnh viễn xóa bỏ nước ta, sáp nhập hẳn vào đế chế Đại Minh. Chính sách đồng hóa của nhà Minh vừa tàn bạo vừa thâm độc, bao gồm nhiều thủ đoạn hủy diệt nguy hiểm. Chúng đặc biệt coi trọng những thủ đoạn hủy diệt văn hóa dân tộc, triệt để phá hoại các di sản văn hóa và cưỡng bức thay đổi lối sống, từ ăn mặc đến các phong tục tập quán đều nhất loạt rập theo kiểu người Minh. Ngô Sĩ Liên là nhà sử học đã từng chứng kiến thảm họa của dân tộc nhận định: “xét những cuộc loạn trong cõi nước Việt ta, chưa bao giờ thấy tột cùng như lúc này… Hơn 20 năm thay đổi phong tục nước ta thành tóc dài răng trắng, biến người nước ta thành người Ngô cả. Than ôi, họa loạn tột cùng đến như vậy ư!”)
Nhân dân ta đã quyết vượt qua thử thách lịch sử này với tất cả sức mạnh tinh thần và vật chất của một dân tộc đã trưởng thành. Tiếp sau ngay cuộc kháng chiến thất bại của triều Hồ là hàng loạt cuộc khởi nghĩa chống Minh nổ ra gần như liên tục trong suốt thời Minh thuộc. Ngọn lửa của chiến tranh yêu nước đã lan rộng khắp mọi miền của đất nước và lôi cuốn mọi tầng lớp nhân dân tham gia. Hơn 60 cuộc khởi nghĩa chống Minh đã nói lên sự thật đó.
Lê Lợi vừa lớn lên đã chứng kiến sự sụp đổ của triều Trần, những cuộc khởi nghĩa của nông dân – nô tỳ và những cố gắng cải cách của triều Hồ. Những biến động chính trị – xã hội đó hản có ảnh hưởng đến nhận thức, tư tưởng của Lê Lợi, nhưng có lẽ chưa tác động bao nhiêu đến địa vị và chí hướng của một ông đạo Cham hay quân trưởng của miền núi rừng Lam Sơn xa xôi. Nhưng rồi cuộc chiến tranh xâm lược và nền thống trị của nhà Minh với những cuộc đàn áp đẫm máu, những mưu đồ đồng hóa quỷ quyệt của đế chế Đại Minh, đã lôi cuốn cả đất nước vào cơn xoáy lốc khủng khiếp mà sự sống còn của dân tộc và của con người, buộc mỗi người phải tự xác định thái độ và quyết định chỗ đứng của mình. Lê Lợi với lòng yêu nước, thương dân tha thiết, với ý chí và nghị lực của kẻ trượng phu dĩ nhiên không thể đứng ngoài cuộc đấu tranh cứu nước sôi sục của các tầng lớp nhân dân. Tham gia và cống hiến cao nhất cho sự nghiệp cứu nước, đây là bước ngoặt lớn nhất trong cuộc đời của Lê Lợi và cũng là cơ sở đưa Lê Lợi lên địa vị một anh hùng dân tộc vẻ vang.
Sự nghiệp cứu nước
Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về khởi nghĩa Lam Sơn và thắng lợi của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc do Lê Lợi lãnh đạo. Vấn đề cần đặt là trong thắng lợi hiển hách của sự nghiệp bình Ngô, chúng ta xác định thế nào cho đúng, cho thật khách quan và thỏa đáng, công lao và cống hiến của Lê Lợi. Theo tôi, có thể nêu lên mấy mặt cơ bản sau đây:
- Lê Lợi là người khởi xướng và sáng lập cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
Trước khi tổ chức và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, bia Vĩnh Lăng chỉ cho biết tóm lược thái độ và hoạt động của Lê Lợi như sau: “Tuy thời gặp loạn lớn, mà chí càng bền, giấu mình ở Lam Sơn, làm nghề cày cấy.
Lê Lợi đã từng thấy sự bất lực và đổ nát của triều Trần, sự bất binh, phản kháng của nhân dân đối với vương triều suy thoái này, nên biết rõ phong trào cứu nước dưới danh nghĩa khôi phục nhà Hậu Trần không thể đi đến thành công. Đại Việt sử kỷ toàn thư, phần chống Minh do Phan Phu Tiên là nhà sử học đương thời soạn thảo, còn ghi lại thái độ của Lê Lợi đối với nhà Hậu Trần: “Vua thấy họ yếu hèn, lại say đắm tửu sắc, biết là không làm nên chuyện, mới ẩn náu ở chốn núi rừng…”
Lê Lợi đã từng tự viết về những năm tháng tạm náu mình để chờ thời cơ mưu đại sự này: “Trẫm vẫn giữ vững lòng xưa, không để quan tước dụ dỗ, không cho uy thế khuất phục, dù lũ giặc trăm mưu ngàn khóe, mà chí trẫm vẫn rắn chắc, không hề nao núng. Nhưng vì thế giặc còn mạnh, chưa dễ mà chống chọi được. Trẫm thường phải dùng lời nhún nhường, dùng lễ thật hậu, nhiều vàng bạc, châu báu hối lộ lũ tướng giặc Trương Phụ, Trần Trí, Sơn Thọ, Mã Kỳ, mong chúng nới bớt lòng hại trẫm để trẫm có thể đợi thời xem thế…”
Trong những năm đầu thời Minh thuộc, Lê Lợi, như Lê Quý Đôn nhận xét, “hết sức ẩn kín hình tích, không lộ tiếng tăm” Nhưng đằng sau cái bề ngoài an phận, “nương thân nơi hoang dã” (Bình Ngô đại cáo) đó là cả một tâm hồn rực lửa yêu nước và căm thù, một ý chí kiên cường, một hoài bão mưu đồ đại sự. Đó là những năm tháng “nghĩ khó đội trời cùng quân địch, thề không chung sống với giặc thù”, “phát giận quên ăn, thường nghiền ngẫm những sách thao lược, nghĩ nay suy trước, xét cùng mọi lẽ hưng vong” (Bình Ngô đại cáo). Trước những thủ đoạn mua chuộc, đe dọa của địch, Lê Lợi thổ lộ với những người thân tín: “kẻ trượng phu ở đời nên cứu nạn lớn, lập công to, để tiếng thơm muôn đời, chứ đâu lại chịu bo bo làm đầy tớ muốn người”).
Lúc bấy giờ phong trào chống Minh đã bùng nổ dữ dội mà lớn nhất là cuộc khởi nghĩa Giản Định – Trùng Quang. Đất Thanh Hóa, quê hương của Lê Lợi, cũng là một địa bàn hoạt động mạnh mẽ của nghĩa quân Hậu Trần, của Đồng Mặc. Lê Lợi theo dõi chặt chẽ thời cuộc, nhưng không tham gia các cuộc khởi nghĩa đó. Điều ấy chứng tỏ Lê Lợi đang suy nghĩ, tìm tòi và nuôi dưỡng một ý đồ cứu nước lớn hơn. Có thể coi đó là giai đoạn chuẩn bị về nhận thức tư tưởng để hình thành quyết tâm cứu nước và phươnq hướng cứu nước của Lê Lợi.
Đó là hội thề Lũng Nhai lịch sử đặt cơ sở cho sự hình thành một tổ chức lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và một bước chuẩn bị lực lượng tiến tới phát động khởi nghĩa.
Trong giai đoạn chuẩn bị, Lê Lợi đã “dốc hết của nhà, hậu đãi tân khách” (Bia Vĩnh Lăng), trang trại Lam Sơn của Lê Lợi trở thành cơ sở vật chất đầu tiên của những người khởi nghĩa. Hai cha con Ngô Kinh, Ngô Từ là những gia nô tin cậy được Lê Lợi giao phó cho việc quản lý trang trại, vừa “thu nhận nhân tài hào kiệt” các nơi đến, vừa “bên trong lo việc binh lương, bên ngoài bắt kẻ gian dòm ngó”(). Trên đất Lam Sơn đang hình thành một căn cứ khởi nghĩa. Anh hùng hào kiệt từ bốn phương bí mật tìm về Lam Sơn tụ nghĩa. Một bộ chỉ huy khởi nghĩa, một lực lượng nòng cốt của nghĩa quân được khẩn trương xây dựng dưới quyền tổ chức và lãnh đạo của Lê Lợi.
Quá trình hình thành, chuẩn bị về mọi mặt của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chứng tỏ Lề Lợi là người khởi xướng và sáng lập ra cuộc khởi nghĩa ấy. Lê Lợi không những đề ra chủ trương, mà còn trực tiếp đứng ra tập hợp lực lượng, xây dựng tổ chức, tạo nên cơ đồ của một phong trào yêu nước đi từ không đến có, từ yếu đến mạnh để cuối cùng giành thắng lợi vẻ vang.
Lê Lợi là người đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng yêu nước dưới lá cờ đại nghĩa Lam Sơn
Những phong trào chống Minh trước khởi nghĩa Lam Sơn biểu thị nhiều xu hướng chính trị khác nhau. Phong trào Hậu Trần do một số quý tộc họ Trần lãnh đạo, nêu khẩu hiệu vừa chống Minh, vừa khôi phục vương triều Trần. Sự bất lực của các nhà quý tộc cùng danh nghĩa khôi phục một vương triều đã sụp đổ làm cho phong trào này dù dấy lên mạnh mẽ một thời, nhưng vẫn không huy động được lực lượng của đông đảo nhân dân và nhanh chóng tan rã, thất bại.
Cuộc khởi nghĩa Lê Ngã do một gia nô cầm đầu lại chủ trương vừa chống Minh, giải phóng đất nước, vừa chống lại tầng lớp quý tộc, giải phóng nô tỳ. Bọn quý tộc, trong đó có người chủ cũ của Lê Ngã là Trần Thiên Lại (có sách chép là Tê), đã tập hợp lực lượng đánh lại Lê Ngã. Cuộc xung đột đó làm cho lực lượng nghĩa quân bị tổn hại và quân Minh thừa dịp đàn áp, dập tắt cuộc khởi nghĩa.
Dưới thời thuộc Minh, mâu thuẫn dân tộc giữa nhân dân ta và chính quyền đô hộ của nhà Minh đã trở thành mâu thuẫn gay gắt nhất và bao trùm cả xã hội. Nhưng bên trong xã hội vẫn tồn tại những mâu thuẫn phức tạp với yêu cầu dân sinh bức thiết của nông dân và yêu cầu giải phóng của nô tỳ. Tất cả những cuộc khởi nghĩa chống Minh đều xuất phát từ mâu thuẫn dân tộc và biểu hiện lòng yêu nước, khát vọng giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Nhưng các phong trào yêu nước trước khởi nghĩa Lam Sơn, hoặc do sự bất tài, bất lực của những người lãnh đạo, hoặc do những khuynh hướng chính trị hẹp hòi đều không đoàn kết, tập hợp được mọi lực lượng yêu nước của mọi tầng lớp xã hội và đều thất bại. Những phong trào này vẫn chưa khắc phục được những nhược điểm và sai lầm đã từng dẫn cuộc kháng chiến chống Minh do triều Hồ lãnh đạo đến chỗ bại vong.
Khởi nghĩa Lam Sơn từ trong quá trình chuẩn bị đã đi theo một khuynh hướng khác. Trong số 19 người dự hội thề Lũng Nhai và danh sách 51 tướng văn, tướng võ của nghĩa quân ngày đầu khởi sự, ngoài một số người vùng Lam Sơn và Thanh Hóa, còn có nhiều người yêu nước từ những nơi xa xôi tìm đến với Lê Lợi. Đó là trường hợp Nguyễn Xí từ Thượng Xá (Nghệ An), Nguyễn Trãi từ Thăng Long (Hà Nội), Phạm Văn Xảo từ vùng kinh lộ (vùng quanh Hà Nội), Trần Nguyên Hãn từ Sơn Đông (Vĩnh Phúc), Bùi Quốc Hưng từ Cống Khê (Hà Tây), Lưu Nhân Chú cùng với cha là Lưu Trung, anh rể là Phạm Cuống từ Đại Từ (Thái Nguyên)… Khởi nghĩa Lam Sơn dấy lên từ Thanh Hóa, nhưng ngay từ đầu đã tập hợp được anh hùng hào kiệt của bốn phương, gây dựng mối liên hệ rộng rãi trong nước.
Thành phần bộ chỉ huy, có thể nói là một hình ảnh thu nhỏ của khối đoàn kết dân tộc lúc bấy giờ với những con người ưu tú thuộc mọi thành phần xã hội và dân tộc. Bên cạnh Lê Lợi thuộc tầng lớp hào trưởng, có mặt những trí thức tài cao chí lớn như Nguyễn Trãi, những quý tộc yêu nước như Trần Nguyên Hãn, những tù trưởng miền núi như Lê Lai, cho đến những người nông dân lao động như Nguyễn Khuyển, Nguyễn Xí, những người đã từng phải đi ở làm gia nô như Trịnh Khả… Còn lực lượng nghĩa quân là quần chúng yêu nước vũ trang “nêu gậy làm cờ, tụ tập khắp bốn phương manh lệ ” (Bình Ngô đợi cáo). Manh là người dân thường, người cày ruộng, lệ là tôi tớ. Manh lệ là quần chúng lao động gồm những người nông dân và nô tỳ trong xã hội thời bấy giờ.
Khởi nghĩa Lam Sơn đã sớm mang tầm vóc dân tộc với khuynh hướng và khả năng đoàn kết, tập hợp lực lượng rộng lớn của nó. Cờ nghĩa Lam Sơn càng giương cao, tính dân tộc và tính nhân dân của phong trào càng phát triển.
Trong giai đoạn hoạt động ở miền núi rừng Thanh Hóa, tên tuổi của Bình Định vương Lê Lợi cùng ảnh hưởng của cuộc khởi nghĩa đã lan truyền khắp nước. Nhiều người yêu nước từ các nơi tiếp tục tìm về Lam Sơn tham gia sự nghiệp cứu nước. Trong số đó có người được Lê Lợi cử về quê hoạt động, xây dựng cơ sở như bà Lương Minh Nguyệt ở cổ Lộng (Nam Định), Phạm Luận ở Như Uyên (Kinh Môn, Hải Dương)… Khởi nghĩa Lam Sơn khi còn ở trong địa bàn Thanh Hóa đã có những mối liên hệ và cơ sở được chuẩn bị ngoài Thanh Hóa.
Cuộc khởi nghĩa không chỉ tập hợp những người yêu nước, mà còn có khả năng thu hút những cuộc khởi nghĩa khác. Trên đất Thanh Hóa, Nguyễn Chích là một nông dân nghèo đã cầm đầu một cuộc khởi nghĩa trước Lê Lợi và từ căn cứ núi Nghiêu – Hoàng đã mở rộng hoạt động khắp vùng nam Thanh Hóa, bắc Nghệ An. Nguyễn Chích đã sớm hưởng ứng hịch cứu nước của Lê Lợi, rồi đem toàn bộ lực lượng gia nhập khởi nghĩa Lam Sơn.
Từ tháng 10-1424 khởi nghĩa Lam Sơn chuyển hướng chiến lược vào xây dựng “đất đứng chân” ở Nghệ An, rồi nhanh chóng phát triển thành một cuộc chiến tranh yêu nước rộng lớn. Sự hưởng ứng và tham gia, ủng hộ của nhân dân được nâng cao và mở rộng dưới nhiều hình thức phong phú: gia nhập nghĩa quân, tiếp tế lương thực, phối hợp bao vây đồn địch… Sử cũ ghi lại nhiều hình ảnh cảm động: “già, trẻ tranh nhau đem trâu rượu đến đón và khao quân. Mọi người đều nói: không ngờ nay lại được trông thấy uy nghi nước cũ”, “chia quân đi lấy lại đất đai các nơi, đến châu huyện nào, người ta đều nghe tiếng mà quy phụ, cùng nhau hợp sức vây đánh thành Nghệ An”, “nhân dân trong cõi dắt díu nhau đến đông vui như đi chợ”, “tranh nhau đến cửa quân xin liều chết đánh giặc”!
Trong giai đoạn này, khởi nghĩa Lam Sơn trở thành trung tâm quy tụ của nhiều cuộc khởi nghĩa chống Minh ở các .địa phương và phát triển trong sự tham gia hưởng ứng và vùng dậy của nhân dân. Khi tiến quân vào Nghệ An, các lực lượng chống Minh ở vùng này như Phan Liêu, Lộ Vãn Luật ở Ngọc Ma, Nguyễn Biên ở Động Choác (Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh), Nguyễn Vĩnh Lộc ở Trang Niên (Yên Thành, Nghệ An), đều tự nguyện gia nhập hàng ngũ nghĩa quân Lam Sơn, đứng dưới lá cờ cứu nước của Bình Định Vương.
Các cuộc kháng chiến chống Tống đời Tiền Lê, đời Lý, chống Mông – Nguyên đời Trần, chống Minh đời Hồ là những cuộc chiến tranh giữ nước, tiến hành vào lúc đất nước độc lập, có chính quyền và quân đội. Khởi nghĩa
Lam Sơn là một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc dấy lên từ nhãn dân và từ tay không gây dựng cơ đồ. Trong điều kiện đó, việc thu phục nhân tâm, đoàn kết và tập hợp lực lượng dân tộc giữ một vai trò đặc biệt quan trọng. Lê Lợi đã hoàn thành xuất sắc vai trò lịch sử đó trong khởi nghĩa Lam Sơn.
Đất nước ta lúc bấy giờ không ít những người yêu nước có tài năng xuất chúng, nhưng khó có một người nào khác ngoài Lê Lợi hội tụ được những yếu tố cần thiết để trở thành một lãnh tụ dân tộc có sức đoàn kết, tập hợp rộng lớn như vậy. Trần Nguyên Hãn là một quý tộc dòng dõi họ Trần, nhưng không tham gia phong trào Hậu Trần, lại lặn lội tìm vào Lam Sơn phò tá Lê Lợi. Nguyễn Trãi là một trí thức uyên bác, có tâm hồn lớn, đã bao năm đi tìm đường cứu nước và tìm minh chủ, cũng tự nguyện đứng dưới cờ của Bình Định vương Lê Lợi. Nhiều tù trưởng miền núi đã từng hùng cứ một phương như Cầm Quý ở Ngọc Ma, Xa Khả Tham ở Mường Mộc… thậm chí có người đã từng hợp tác với quân Minh như Cầm Lạn ở Quỳ Châu, Đèo Cát Hãn ở Ninh Viễn… sớm muộn đều quy phục Lê Lợi, tham gia khởi nghĩa Lam Sơn.
Uy tín và ảnh hưởng rộng lớn của Lê Lợi rõ ràng không phải được tạo nên bằng dòng dõi thế phiệt trâm anh, cũng không phải bằng phẩm hàm, chức tước hay học vị. Sức lôi cuốn và hấp dẫn của Lê Lợi trước hết là do đức độ, tài năng của ông quyết định. Lê Lợi là một nhà yêu nước lớn đã dốc hết tâm huyết, nghị lực và của nhà cho sự nghiệp cứu nước. Là một hào trưởng thuộc tầng lớp địa chủ thứ dân, Lê Lợi không bị ràng buộc quyền lợi và địa vị với các vương triều Trần, Hồ, với chế độ điền trang thái ấp và chế độ bóc lột nô tỳ của tầng lớp quý tộc. Do đó mọi tầng lớp xã hội, mọi lực lượng yêu nước có thể tìm thấy ở Lê Lợi, người đại diện cho lợi ích chung và tối cao của dân tộc trong công cuộc đuổi giặc cứu nước.
- Lê Lợi là lãnh tụ tối cao cua khởi nghĩa Lam Sơn, cùng với bộ chỉ huy nghĩa quàn, vạch đường chỉ lối đưa sự nghiệp cứu nước đến toàn tháng
Bộ chỉ huy nghĩa quân Lam Sơn là đầu não của cuộc khởi nghĩa, giữ vai trò quyết định trong việc tổ chức và chỉ đạo chiến tranh, vạch ra đường lối, chiến lược, chiến thuật đưa cuộc chiến tranh vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, đi đến thắng lợi cuối cùng.
Ngày nay thật khó tách bạch ra những cống hiến của từng cá nhân trong bộ chỉ huy. Tất nhiên về một số mặt nào đó, sử sách còn ghi lại đóng góp của từng người. Ví dụ: Nguyễn Trãi tìm đến Lam Sơn với Bình Ngô sách vạch ra “ba kế sách dẹp giặc Ngô”! với những chủ trương “đánh vào lòng người”!), “mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất” (Bình Ngô đại cáo), kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, ngoại giao, địch vận, cách kết thúc chiến tranh nhằm “sửa hòa hiếu cho hai nước, tắt muôn đời chiến tranh” (Phú núi Chí Linh)… Vì vậy Lê Lợi coi Nguyễn Trãi là một “mưu sĩ” (Quân trung từ mệnh tập) “nói tất nghe mà kế tất theo” (Biểu tạ ơn). Người anh hùng nông dân Nguyễn Chích cũng có cống hiến to lớn với kế hoạch xây dựng “đất đứng chân ” ở Nghệ An mà sau này Lê Quý Đôn đánh giá rất cao: “Bầy tôi có công khai quốc, kể về bậc tài trí cần lao không phải là hiếm, nhưng sở dĩ vua Cao Hoàng bình định được cả nước là do mưu chước của Lê Chích”!.
Nhưng đóng góp của từng người không thể tách rời sự bàn luận, chấp nhận và tổ chức thực hiện của bộ chỉ huy, trong đó có vai trò quyết định cao nhất của Lê Lợi với cương vị người đứng đầu bộ chỉ huy. về phương diện này, theo tôi, vai trò của Lê Lợi biểu hiện tập trung trên hai mặt chính sau đây:
– Lê Lợi đã tập hợp được những người yêu nước, có tài năng, không phân biệt thành phần xã hội và dân tộc, để tạo nên trí tuệ ưu việt của bộ chỉ huy. Lê Lợi tỏ ra có cặp mắt và khối óc xét đoán tinh tường, biết phát hiện tài năng và sử dụng tài năng những người dưới trướng của mình. Trong bộ chỉ huy có mặt nhiều người hầu như xuất thân từ mọi tầng lớp xã hội khác nhau, có mặt đối lập với nhau, nhưng tất cả đều đoàn kết quanh Lê Lợi trong sự nghiệp cứu nước thiêng liêng của cả dân tộc. Giữa họ, cương vị có khác nhau, nhưng rất gắn bó, thân thiết với nhau, khác xa tình trạng chia rẽ, xung đột như trong bộ chỉ huy cuộc khởi nghĩa của nhà Hậu Trần. Kể lại quan hệ vua – tôi thuở bình Ngô, sau này Lê Lợi nói: “Trẫm đối xử với người, chẳng bao giờ là không hết lòng thành thực, thà người phụ ta chứ ta không phụ người. Phàm kẻ nào bất bình vì một việc nhỏ mà bỗng sinh chí khác thì trẫm đều khoan thứ, cho hối lỗi dù họ từng trở mặt, coi ta như thù. Trẫm vẫn tin cậy như người tâm phúc nếu họ biết sửa đổi thì thôi… Ấy là vì trẫm trải nhiều ưu hoạn, nếm đủ gian nan, cho nên biết xót thương, nén giận, không vì việc nhỏ mà hại nghĩa lớn, không vì ý nông cạn mà nhỡ mưu đồ cao xa. Trong khoảng vua tôi, lấy đại nghĩa mà đối xử, ân tình như ruột thịt…’Tt5)
– Với vai trò của người lãnh tụ tối cao, Lê Lợi không những biết phát huy tài năng, trân trọng cống hiến của mọi người trong bộ chỉ huy mà còn biết quyết đoán khi cần quyết đoán. Chính sử còn ghi chép lại những lời phát biểu có ý nghĩa quyết định của Lê Lợi trong khi bàn luận với các tướng soái để xác định chủ trương của nghĩa quân hoặc để kịp thời ứng phó với một tình thế mới của chiến tranh. Những lời phát biểu đó cho thấy Lê Lợi là một nhà chính trị và quân sự tài ba, một nhà tổ chức giỏi và quyết đoán. Vài ví dụ:
Từ cuối năm 1426 sau chiến thắng Tốt Động – Chúc Động, nghĩa quân Lam Sơn bắt đầu mở chiến dịch vây hãm và giải phóng thành Đông Quan. Nếu không có viện binh của nhà Minh thì chiến dịch này sẽ giữ vai trò quyết định kết thúc chiến tranh. Nhưng đến mùa thu năm 1427, nhà Minh đã điều 15 vạn quân sang tiếp viện để cứu nguy cho thành Đông Quan và hòng xoay chuyển lại tình thế chiến tranh. Nhiều tướng lĩnh xin Lê Lợi cho tập trung lực lượng hạ thành Đông Quan để “tuyệt nội ứng”. Nhưng Lê Lợi đã kiên quyết bác bỏ những đề nghị đó và đề ra chủ trương “vây thành diệt viện” rất mưu trí. Lê Lợi nói: “Đánh thành là hạ sách. Ta đánh thành kiên cố, hàng năm, hàng tháng không lấy được, quân ta sức mỏi chí nhụt, nếu viện binh giặc lại đến thì trước mặt sau lưng đều bị tấn công, đó là đường nguy. Chi bằng nuôi sức quân, chứa khí hăng để đợi quân viện đến, khi viện binh bị phá thì thành tất phải hàng. Thế là nhất cử lưỡng tiện, là mưu chước vạn toàn”C6).
Cuối năm 1427 sau đại thắng Chi Lăng – Xương Giang, viện binh đã bị tiêu diệt, quân Minh trong thành Đông Quan hoàn toàn bị cô lập và tuyệt vọng. Quân ta có đủ thế và lực để hạ thành Đông Quan, giành thắng lợi quân sự trọn vẹn. Nhiều tướng sĩ nghĩa quân cũng xin hạ thành Đông Quan tiêu diệt toàn bộ quân giặc. Nhưng Nguyễn Trãi lại đề ra chủ trương uy hiếp và vận động, buộc Vương Thông đầu hàng, “quyết nghị hòa để hai nước can qua đều khỏi” (Biểu tạ ơn). Lê Lợi đã sáng suốt chấp nhận chủ trương của Nguyễn Trãi và giải thích: “Việc dụng binh cốt lấy bảo toàn cả nước làm trên hết. Nay hãy để cho lũ Vương Thông về nói với vua Minh trả lại đất nước cho ta, không còn trở lại xâm lấn, thì ta còn cần gì hơn nữa, hà tất phải giết hết, để kết mối thù với nước lớn”C7).
Với tất cả những công lao và cống hiến trên đây, Lê Lợi xứng đáng là một anh hùng dân tộc lớn mả tên tuổi và sự nghiệp sống mãi với lịch sử quang vinh của dân tộc.
Sự nghiệp dựng nước
Nói đến Lê Lợi, nhiều người thường chỉ dừng lại ở sự nghiệp cứu nước của ông, người ta không muốn nói đến chặng đời làm vua của ông. Thậm chí có người chỉ ghi nhận và nêu cao công lao bình Ngô của Lê Lợi và phê phán khá nặng nề nhiều việc làm của Lê Thái Tổ, nhất là việc giết công thần của ông.
Cố nhiên từ Lê Lợi – Bình Định vương đứng đầu khởi nghĩa Lam Sơn đến Lê Lợi – Lê Thái Tổ cầm đầu triều đình nhà Lê là hai chặng đường có sự phân biệt về chất trong con người và sự nghiệp của Lê Lợi. Một khi đã ngồi lên ngai vàng của chế độ quân chủ chuyên chế thì tư tưởng, tình cảm của Lê Lợi cũng như mối quan hệ giữa ông với các tầng lớp nhân dân, tất có những thay đổi. Trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, đó là điều tất yếu. Nhưng vấn đề đặt ra là với cương vị hoàng đế của triều Lê, Lê Lợi đã hoạt động như thế nào và những hoạt động đó tác động ra sao đối với tiến trình lịch sử dân tộc.
Cũng là cố nhiên, không ai bênh vực gì những việc làm sai trái của Lê Lợi như việc giết hại Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn xảo và hạ ngục Nguyễn Trãi một thời gian. Có thể coi đó là những hành vi đáng tiếc, những vẩn đục trong cuộc đời của Lê Lợi. Nhưng ở đây cũng có những khía cạnh cần làm sáng tỏ để hiểu và đánh giá đúng nhân cách của Lê Lợi.
Lê Lợi lên làm vua năm 1428, lúc 43 tuổi. Lê Lợi có hai người con trai, năm 1429 con trưởng là Tư Tề được lập làm Quốc vương, quyền coi việc nước và con thứ là Nguyên Long được lập làm hoàng thái tử. Nhưng Tư Tề bị bệnh “ngông cuồng” nên năm 1433 Lê Lợi giáng Tư Tề, lập con thứ là Nguyên Long mới 10 tuổi, lên nối ngôi. Ngày 22 tháng 8 năm Quý Sửu (ngày 5-9-1433) Lê Lợi từ trần khi mới 48 tuổi.
Vào cuối đời, Lê Lợi rất hối hận về việc làm của mình. Trong bài chiếu lập Nguyên Long nối nghiệp, Lê Lợi căn dặn: “Xưa kia ta gặp thời tán loạn, dựng nghiệp khó khăn, hơn hai chục năm mới nên nghiệp lớn. Tinh dân đau khổ đều được tỏ tường, đường đời gian nan cũng đã từng trải. Thế mà đến lúc trị dân, tình ngay đối còn có điều khó rõ, việc nghi nan còn có chỗ chưa phân, đạo làm vua há chẳng khó sao!”. Lê Lợi cũng đã nhận ra tâm địa của bọn “tiểu nhân xảo quyệt” và có chỉ dụ dặn lại triều thần: “Bọn Lê Quốc Khí, Trình Hoàng Bá, Lê Đức Dư, tuy có tài nhưng không được dùng lại. Bề tôi có kẻ nào mưu việc phản nghịch cần phải tố cáo cũng không cho bọn ấy được cáo giác”(2°).
Đưa ra những tư liệu trên để thấy trong hoàn cảnh nào Lê Lợi đã phạm sai lầm giết hại công thần và ghi nhận sự hối cải khá chân thành, nghiêm khắc của ông vào năm cuối đời.
Sau khi đất nước được giải phóng, Lê Lợi và triều Lê do ông sáng lập, đứng trước nhiều khó khăn ngổn ngang và nhiệm vụ nặng nề. Sự tàn phá, hủy diệt của 20 năm Minh thuộc và tình trạng chiến tranh kéo dài để lại hậu quả nghiêm trọng trên mọi mạt của đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội. Những chuyển biến trong kết cấu kinh tế xã hội từ cuối thế kỷ XIV sang đầu thế kỷ XV cũng đặt ra nhiều vấn đề phức tạp đòi hỏi nhà Lê phải giải quyết.
Lê Lợi chỉ ở ngôi 5 năm, nhưng trong thời gian đó, đã có nhiều cố gắng lớn nhằm khắc phục những hậu quả của thời Minh thuộc, xây dựng lại đất nước, củng cố nền độc lập và thống nhất.
Từ trong quá trình thắng lợi của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, nhất là vào năm cuối, năm 1427, một bộ máy chính quyền độc lập đã dần dần được xây dựng trong vùng giải phóng, thay thế cho chính quyền đô hộ của quân Minh. Sau khi đất nước sạch bóng quân xâm lược, chính quyền nhà Lê được thiết lập từ triều đình trung ương đến các đạo, phủ, châu, huvện, cho đến đơn vị cơ sở là xã. Năm 1429 nhà Lê đặt ngạch xã quan, chia làm 3 loại xã: xã lớn 100 người trở lên đặt 3 xã quan, xã vừa 50 người trở lên đặt 2 xã quan, xã nhỏ có 10 người trở lên đặt 1 xã quan. Số người mỗi xã ít như vậy chứng tỏ tình trạng giảm sút dân số và điêu tàn của các làng xã những năm đầu sau chiến tranh. Tổ chức chính quyền đời Lê Thái Tổ nói chung còn đơn sơ nhưng là một chính quyền độc lập, thống nhất, có cơ sở xã hội vững vàng.
Lê Lợi rất coi trọng việc bảo vệ và củng cố nền độc lập thống nhất quốc gia. Lê Lợi tiếp tục cuộc đấu tranh ngoại giao để làm thất bại âm mưu của nhà Minh đòi lập con cháu nhà Trần làm vua. Nhà Minh còn ngoan cố chỉ coi Lê Lợi là Quyền thự An Nam quốc sự, chưa chịu công nhận là Quốc vương. Nhưng trên thực tế đã phải thừa nhận chủ quyền độc lập của nước Đại Việt và lập quan hệ bang giao với triều Lê.
Nền quốc phòng cũng được tăng cường. Cuối năm 1428, một âm mưu nổi loạn của bọn ngụy quan cũ định liên kết với nhà Minh bị trấn áp. Năm 1431 – 1432 mưu đồ cát cứ của Đèo Cát Hãn ở Mường Lễ (Lai Châu) cũng bị Lê Lợi đích thân đem quân lên đàn áp một cách kiên quyết. Trên vách núi Pú Huổi Chỏ (Lai Châu) và thác Bờ (vốn ở xã Vầy Nưa, huyện Đà Bắc, năm 1982 đã được chuyển về nhà văn hóa thị xã Hòa Bình) còn ghi lại hai bài thơ của Lê Lợi sáng tác trong cuộc hành quân này. Bài thơ khắc trên vách núi thác Bờ có câu:
Bài thơ phản ánh một chủ trương quốc phòng tích cực, kiên quyết và sự quan tâm của Lê Lợi đối với việc bảo vệ an ninh vùng biên cương. Trước lúc từ trần, Lê Lợi cũng để lại cho các đời vua con cháu một lời dặn dò thống thiết: “phải nghĩ giữ nước từ lúc chưa ngụy ”(22). Trong hoạn nạn của đất nước, Lê Lợi là một anh hùng cứu nước. Trong độc lập thanh bình, Lê Lợi là một ông vua có tinh thần dân tộc cao, luôn luôn lo lắng đến vận mạng của đất nước, đến độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia.
Lê Lợi rất coi trọng hoạt động lập pháp, đầu năm 1428 khi còn phải ở tạm trong điện lợp tranh tại Bồ Đề (Gia Lâm, Hà Nội), Lê Lợi đã nói: “Từ xưa đến nay, trị nước phải có pháp luật, không có pháp luật thì sẽ loạn ”(23)
Lê Lợi và triều Lê đã chăm lo xây dựng pháp luật. Một số luật lệ về hành chính và kinh tế đã được ban hành. Đó là những cơ sở lập pháp đầu tiên để sau này Lê Thánh Tông tập hợp, hệ thống và bổ sung xây dựng hoàn chỉnh bộ luật triều Lê hay còn gọi là bộ luật Hồng Đức.
Về phương diện kinh tế – xã hội, Lê Lợi cũng ban hành nhiều chính sách và áp dụng nhiều biện pháp tích cực nhằm phục hồi kinh tế, ổn định trật tự xã hội và giải quyết những mâu thuẫn phức tạp của xã hội.
Năm 1428 Lê Lợi tuyên bố tha thuế ruộng, bãi dâu, ao đầm trong hai năm, miễn sai dịch cho người già trên 70 tuổi và giảm hay miễn thuế cho những vùng bị quân giặc cướp phá nặng nề. Cùng năm đó Lê Lợi cho tiến hành điều tra ruộng đất và dân số để lập sổ điền, sổ hộ. Trên cơ sở đó, năm 1429 Lê Lợi ban hành chỉnh sách quân điền.
Rất tiếc không có một sử liệu nào cho biết rõ những quy định cụ thể của chính sách quân điền năm 1429. Nhưng có thể ghi nhận trong chính sách này, diện quân cấp rất rộng, từ quan, quân đến dân, kể cả người già yếu, mồ côi, góa chổng, cả đàn ông, đàn bà, tức là tất cả thành viên đến tuổi trưởng thành của làng xã. Dĩ nhiên mức độ quân cấp có sự phân biệt theo chức tước, phẩm hàm đối với quan lại và theo thứ bậc đối với dân, trong đó có sự ưu đãi đối với quân lính. Trong điều kiện ruộng đất của làng xã còn nhiều, thậm chí có phần tăng thêm, trong lúc dân số lại có phần giảm sút sau chiến tranh, chính sách quân điền với diện quân cấp rộng rãi như vậy bảo đảm cho người nồng dân, người lính đi chiến đấu và cả những người nô tỳ được giải phóng có ruộng đất cày cấy, nộp tô thuế cho nhà nước. Chính sách đó có tác dụng tích cực trong việc phục hồi nông nghiệp, xây dựng lại xóm làng sau chiến tranh và điều chỉnh một số mâu thuẫn xã hội theo xu hướng thúc đẩy sự phát triển của chế độ phong kiến.
Để bảo đảm tập trung sức lao động cho nông nghiệp, sau chiến tranh Lê Lợi cho 25 vạn quân trở về làm ruộng và áp dụng chế độ ngụ binh ư nông. Từ năm 1429 số quân thường trực chia làm 5 phiên, cứ lần lượt 1 phiên tại ngũ và 4 phiên về quê tham gia sản xuất.
Lê Lợi cũng đề ra những biện pháp kiên quyết để đẩy mạnh công cuộc khai khẩn ruộng đất bỏ hoang do hậu quả của chiến tranh. Xã nào có nhiều ruộng ít người, để ruộng đất bỏ hoang, thì chính quyền cho phép người xã khác đến cày cấy ruộng đất bỏ hoang đó và dù là ruộng tư, chủ ruộng cũng không có quyền chiếm giữ. Như vậy là triều Lê công nhận quyền tư hữu ruộng đất, nhưng không cho phép người chủ sở hữu ruộng đất để ruộng đất hoang phế, ảnh hưởng đến yêu cầu phục hồi và phát triển nông nghiệp.
Chế độ mà Lê Lợi và triều Lê xây dựng là chế độ phong kiến đã chuyển dần sang một mô hình chế độ quân chủ tập quyền theo mô hình Nho giáo với tính chất chuyên chếvà quan liêu càng ngày càng nâng cao. Nhưng trong đời Lê Thái Tổ (1428 – 1433), chế độ quân chủ do Lê Lợi sáng lập và xây dựng, chưa mang tính chất chuyên chế và quan liêu nặng nề.
Trong bộ máy nhà nước mới xây dựng, Lê Lợi bổ dụng những tướng soái của nghĩa quân Lam Sơn vào các chức vụ chủ chốt trong triều và ỏ’ các địa phương. Trong số tướng soái này có những người trình độ học vấn thấp, khả năng quản lý nhà nước kém, lại cậy thế công thần khai quốc, kết thành bè phái, làm ảnh hưởng đến sự vận hành của bộ máy nhà nước mới xây dựng. Lê Lợi đã lo tổ chức lại nền giáo dục và thi cử, nhưng trước yêu cầu to lớn của bộ máy hành chính, nhà vua nhiều lần kêu gọi người hiền tài ra giúp nước bằng chế độ tiến cử hoặc tự tiến cử. Là một lãnh tụ dân tộc đã từng đồng cam cộng khổ với dân chúng, Lê Lợi sau khi lên làm vua, vẫn giữ được nhiều phẩm giá tốt đẹp: quan tâm và chăm lo đời sống của nhân dân, khuyên bảo và căn dặn con cái, triều thần và quan lại không được xa hoa phí phạm, không được tham ô lười biếng, phải hết lòng hết sức làm tròn phận sự được giao. Các bài chiếu cầu hiền tài, truyền bách quan không được làm những lễ nghi khánh hạ, cấm các đại thần, tổng quản và các quan ở Viện, Sảnh, Cục tham lam, lười biếng cùng những bài chiếu cho con là Tư Tề, Nguyên Long, phản ánh rõ tinh thần đó của Lê Lợi). Những bài chiếu trên do Nguyễn Trãi viết, nhưng nhân danh Lê Lợi và dĩ nhiên là phải theo yêu cầu và ý chỉ đạo của nhà vua, phải được nhà vua chấp nhận. Chúng ta coi những bài chiếu đó là tác phẩm của Nguyễn Trãi, điều ấy hoàn toàn đúng, nhưng cũng phải thấy chứa đựng ở trong đó những ý chỉ đạo của Lê Lợi.
Trong công cuộc xây dựng lại đất nước, với thời gian trị vì quá ngắn ngủi (5 năm), Lê Lợi chưa làm được nhiều việc lắm. Nhưng những hoạt động với cương vị hoàng đế đầu tiên của triều Lê đó đã đặt cơ sở vững vàng cho việc khẳng định nền độc lập – thống nhất quốc gia, công cuộc phục hưng đất nước và một bước phát triển mới của chế độ phong kiến.
Cuộc đời và sự nghiệp của Lê Lợi, không kể thời thơ ấu, hình thành ba giai đoạn rõ rệt:
Giai đoạn Lê Lợi – phụ đạo, quân trưởng vùng Lam Sơn. Đây là thời gian bình lặng, Lê Lợi nối dõi sự nghiệp của ông cha với tư cách là chủ trại Lam Sơn.
Giai đoạn Lê Lợi – Bình Định vương. Đây là bước ngoặt lớn nhất trong cuộc đời của Lê Lợi, đưa ông vào một cuộc chiến đấu gian khổ, sôi nổi, quang vinh và trên cơ sở đó trở thành một anh hùng cứu nước vĩ đại của dân tộc.
Giai đoạn Lê Lợi – Lê Thái Tổ. Từ thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc, Lê Lợi chuyển hóa thành ông vua sáng nghiệp của triều Lê. Trên cương vị của người đứng đầu một vương triều phong kiến mới xây dựng đang tiến bộ, Lê Lợi tỏ ra là một ông vua có tinh thần dân tộc cao, có nhiều cống hiến trong công cuộc phục hưng đất nước.
Giai đoạn đầu thuộc về cuộc đời riêng của Lê Lợi, nhưng hai giai đoạn sau thì sự nghiệp của Lê Lợi gắn bó chặt chẽ với sự nghiệp chung của đất nước, của dân tộc với vai trò một lãnh tụ dân tộc và một nguyên thủ quốc gia. Sử sách và nhân dân ta đời đời biết ơn và ngợi ca công lao cứu nước của Lê Lợi, đồng thời ghi nhận và đánh giá cao những cống hiến dựng nước của ông. Các vua Hùng đã được nhân dân từ bao đời nay coi là Tổ mở nước đặt cơ sở đầu tiên cho công cuộc xây dựng và bảo vệ cơ đồ Việt Nam. Ngô Quyền với chiến công Bạch Đằng lịch sử chấm dứt hơn nghìn năm Bắc thuộc, mở đầu kỷ nguyên độc lập và phục hưng dân tộc được nhà yêu nước Phan Bội Châu đầu thế kỷ này, suy tôn là Tổ trung hưng(2i). Lê Lợi với sự nghiệp bình Ngô thắng lợi, kết thúc 20 năm Minh thuộc, mở ra một thời kỳ phát triển mới của đất nước, theo Phan Bội Châu, cũng xứng đáng với danh hiệu Tổ trung hưng thứ ha Cách nhìn nhận đó nói lên vị trí của Lê Lợi trong bảng vàng danh dự các anh hùng dân tộc lớn của lịch sử Việt Nam.
Có thể bạn muốn biết: LINH TỪ QUỐC MẪU TRẦN THỊ DUNG (? – 1259)