Thánh Chu là con người thật, được tôn làm Thánh. Ông có tên là Chu An (cũng gọi là Chu Văn An, Chu Văn Trinh) hiệu Tiều Ẩn, người thôn Vân, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (nay là Thanh Trì, Hà Nội).
Đồi Trần Minh Tông, ông được mời ra giữ chức Tư nghiệp trường Quốc tử giám. Đến đời Trần Dụ Tông, lại từ chức về ở ẩn tại núi Phượng Hoàng, làng Kiệt Đặc, huyện Chí Linh (Hải Dương). Trần Nghệ Tông lên ngôi, có mời nhưng ông chỉ về kinh chúc mừng rồi trở lại núi cú, không nhận chức tước. Ông sinh năm 1292, mất năm 1370, được ban tên thụy là Khanh Tiết, tước Văn Trinh Công, và được thờ ở Văn Miếu.
Nội dung bài viết
Con người và sự nghiệp của Chu Văn An có thể khái quát qua vài nét lớn:
-
Một vị đại thần cương trực
Ông đã để ý tình hình triều chính, rất bất bình với bọn quan lại vô trách nhiệm, bọn gian thần lũng đoạn nước nhà. Ông dâng sớ lên Trần Dụ Tông xin chém 7 tên gian thần. Sử gọi tờ sớ ấy là Thất trảm sớ. Sớ đã có tiếng vang lớn, ngay thời đó, đã được đánh giá là: “tờ sớ Thất trảm, lòng trung nghĩa động đến đất trời” (Thất trảm sớ nghĩa động càn khôn). Nhưng nhà vua không thi hành, ông phản ứng bằng cách từ quan trở về, không liên hệ gì với các nhà cầm quyền nữa. Ông luôn luôn giữ vững tiết tháo của mình).
-
Chu Văn An- Một nhà học giả chân nho
Các tác phẩm của ông đến nay không còn. Nhưng sử sách có nhắc đến bộ Tứ thư thuyết ước , gồm đến 10 quyển. Học giả đời sau đều nhất trí cho là bộ sách nói đầy đủ và trung thành những tư tưởng của Nho giáo. Tư tưởng chính truyền này, phù hợp với đạo đức truyền thống Việt Nam. Có thể thành công đặc biệt của ông là ở đó.

-
Một nhà thơ trong sáng
Chu Văn An làm nhiều thơ. Có thơ chữ Hán: Tiều ẩn thi tập. Có thơ chữ nôm: Quốc ngữ thi tập. Các tác phẩm đều thất lạc nay chỉ còn sót lại 11 bài in trong Toàn Việt thi lục. Qua đó, ta thấy ông quả có tâm hồn thi sĩ. Tình cảm của thiên nhiên rất đậm đà thắm thiết. Tâm hồn ông luôn luôn vươn đến một sự thanh tịnh tuyệt đối.
-
Chu Văn An- Một người thầy
Từ xưa đã có nhiều ông thầy. Nhưng không có ai có thể sánh được với Chu Văn An cả về sau này nữa. Người thầy này có nhiều đặc điểm:
- Ông dạy hầu hết các loại học sinh cao thấp, Dạy trường công như Quốc tử giám gồm con em các vua quan. Ông là hiệu trưởng và giáo viên độc nhất một trường tư nhỏ ở huyện. Đó là trường Huỳnh Cung (làng Cung Huỳnh, Thanh Trì). Ngôi trường nhỏ bé mà đã thu nạp hàng ngàn học sinh đến “chật cửa”.
- Thời bấy giờ, người ta chuộng Phật. Trường của ông lại truyền bá giáo lý của Nho gia. Giành cho nho học một vị trí lớn trong giáo dục lúc này, không phải là việc làm đơn giản. Nhưng ông đã làm được việc này, khiến cho thời đại phải biết ơn ông.
- Ông đã tỏ ra rất gương mẫu, rất uy tín. Tài liệu xưa kể lại là rất nghiêm nghị. Những học trò cũ đều làm quan to như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát về thăm thầy, vẫn phải khép nép giữ gìn, khi có điều gì chưa ổn vẫn bị ông quát mắng. Sự nghiêm minh này, lại khiến cho ông được học trò kính mến hơn.
- Có câu truyện huyền thoại rằng, ông có người học trò vốn là thuỷ thần, đã biến hình để xin được vào học trường ông. Câu chuyện khó tin, nhưng lại bộc lộ được sự thật bản chất. Chu An đã có cái đức, cái tài của ông Thầy, khiến quỉ thần cũng phải đến xin thụ giáo, và xin vâng lời thầy, dù biết là phải chết. Hơn ai hết, chỉ ở Chu Văn An mới có câu chuyện huyền thoại này.
-
Chu Văn An cũng là một thầy thuốc
Điều này còn phải thẩm tra thêm. Những sách Thanh Trì Quang Liệt Chu thị di thư có nói ông là tác giả bộ sách thuốc có tên là: Y học yếu giải, tập chú di biên.
Ngay từ hồi Chu Văn An đang sống, cả nước đã nhất trí ca ngợi phẩm chất thanh cao tuyệt vời của ông, đã đồng tình tôn ông là người Thầy vĩ Đại. Triều đình thờ ông ở Văn Miếu, xem ngang hàng với những bậc thánh hiền ngày xưa. Tác dụng của ông được mọi người đồng ý với Trần Nguyên Đán là “nhờ có ông mà bể học xoay làn sóng, phong trụ trở lại thuần hậu”. Người dân vùng quê ông thờ ông làm Thành hoàng, và gọi ông là Đức Thánh Chu. Việt Nam có những thánh võ như Thánh Gióng, thánh Trần thì phải có thánh Văn (ngang với thánh Văn Xương đế quân). Thánh Ván là một nhà giáo, là ông thầy Chu Văn An. Những ch tích trong nước có liên quan đến ông đều gắn với uy danh người Thầy giáo, người hiền triết bậc Thánh nhân. Ngô Thế Vinh sau này đã viết văn bia (1841). Cùng năm này, Nguyễn Bảo đã soạn cuốn Phương Sơ từ chí lược, có bài viết như sau: “Ông Chu Văn Trinh là nho tông nước Việt. Văn hạnh bình sinh của ông, đáng truyền thuật sáng chói. Bảo này đọc sử, khi đọc đến chỗ viết thường không khỏi cúi đầu bồi hồi chiêm ngưỡng. Song trong lòng nghỉ ngợi biết là sử chép sơ lược quá, khiến cho người sau vì muốn biết như giận lòng. Xưa Lý Bật đời Đường, việc xuất xứ, tiến thoái của ông nói rằng không viết, nhưng chim có tình tiết cảm động mạnh người ta. Đường sử chép về ông nói rằng lúc đầu ẩn cư, ba lần mời không ra. Giữa đời đời Đông đô, lại ra làm quan, cuối đời từ chức về nhà. Thế mà đời sau nếu ông lên không biết chán, những lời ông nói được lưu truyền trong dân, ghi chép kỹ càng mãi không thôi! Vì vậy, khiến sự việc bình sinh của ông, rõ ràng để khảo. Điều đó không những các bậc quân tử lấy làm mừng, mà mọi người đều mừng.
Chu tiên sinh của nước ta, thành tựu có ảnh hưởng đến học nghiệp về sau. Ông ra sức bảo vệ chính đạo, tránh xa tà thuyết. Việc làm thầy của ông thì tôn nghiêm, việc chung thì thành tâm trung quân ái quốc, đến mức dâng sớ Thốt trảm, muốn làm sạch chính đạo, chỉnh đốn cương kỷ, không phải là người vĩ đại thì làm sao được như vậy? Ông giữ việc học chân chính, đạo đức thuần túy, đến độ gan trung thành, phế phủ đạo nghĩa, sao ta lại bỏ quên những cái ấy được!
Ôi! Người ta giận là sự nghiệp không đáng truyền, nếu đáng truyền, sao lại ghi chép quá sơ lược. Một con người đứng hàng đầu mà sử ghi không tường tận bằng một phần mười sử nhà Đường! Cả quá trình được mời, dâng sớ, treo mũ, dạy học cho đến chết, chỉ ghi chung chung sơ sài, không có đại thư, đặc thư nhằm nêu cao đạo đức của ông. Đến như bài sớ Thất trảm, cũng chẳng chép lại chữ nào; Tứ thư thuyết ước cũng không còn một mảnh. Năm tháng ngày sinh, ngày chết của ông cũng không khảo được, đó chẳng phải là sử ghi quá sơ lược đấy ư? Trưởng công Bùi Tôn Am cùng các nhà nho có ý tìm thuật sự tích và nêu gương Chu Văn An, chép lại thơ ông, để lại chứng cớ cho ngày nay. Ông lại tự viết bài ký ở đền Văn Điển, học giả mong được theo đạo thánh, mời tiên sinh làm chuẩn. Ôi! Sư học hứng khởi biểu hiện ở sự làm sáng tỏ người trước, khuyến khích người sau, đến như vậy sao! Cho nên trước đây quan Tiến sĩ họ Lê, người Bắc Giang, đến Hải Dương, lập tức ra lệnh tìm kiếm nơi ẩn cư của Chu Văn Trinh, lập bia ghi chú, không hề mỏi mệt mà bỏ dở.
Ôi, đó có phải là vì những đồng hương mà thích thú đâu! Bảo tôi nay gặp thời, đến giữ đất này, chính mai nhìn thấy Miết Trì ở Phượng Sơn là nơi ông ẩn cư xưa kia; cúi xuống nhặt được sách, ngẩng lên nhìn thấy mây xanh, ngày thường tiếp xúc mà trong lòng hâm mộ; lòng có sở nguyện mà không dám làm một mình, bèn thường nghị việc quên góp, lập đền ngay trên chỗ ẩn xưa để thờ, chẳng được là suy tôn ông, nhưng cũng là Bự nhớ lại chuyện Bạch Lộc xưa để tỏ lòng riêng. Một là để không quên di ý của quan Tể tướng họ Bùi trước đây; hai là muốn viết hành trạng riêng cho tiên sinh, từ xưa đứt đoạn cho đến nay là khó nhưng không làm thế thì làm sao đáp ứng được lòng thành của tiền bối họ Bùi trông cậy ở đời sau!
Cho nên, tôi lấy sử nhà Trần làm chính, tham khảo thêm nghị luận của các nhà, biên tập thành hành trạng của tiên sinh làm tập thứ nhất; sau đó chép thơ tiên sinh, làm tập thứ hai; sau cùng chép các thơ tặng, luận thuyết của các nhà, cùng các bài bi ký, làm tập thứ ba. Lại cho vẽ bản đồ các đền thờ, đóng thành tập, đó là tập thứ tư. Qua mấy lần đưa cho các bậc quân tử xem xét, được một tập cành ngọn về hành trạng của tiên sinh. Đối với lòng ngưỡng mộ, tôn sùng Chu tiên sinh của người đời sau, có lẽ tôi tránh được tội cầu an vậy!
Năm tháng sinh, chết của tiên sinh phải khảo rộng riêng; còn như bài Thất trảm sớ, bộ Tứ thư thuyết ước thì đại nghĩa vẫn còn và là cách ngôn dạy ý hạnh cho người ta hàng ngày, đại ý nó phần nhiều đáng truyền. Đến như việc có vật thần, được thần phù hộ, Bảo này biết chuyện đó mờ tỏ tuỳ thời, có nguyên nhân nào đó mà lưu truyền rộng ra, nó cùng di tích núi này được truyền cùng cõi, không bị huỷ diệt trong đám cây cỏ rậm rạp mịt mờ. Như truyện Miết thần (thần Giải) chẳng hạn. Người ấp Quang Liệt truyền rằng khi tiên sinh dạy học, học trò rất đông; có một người hàng ngày đến nghe giảng, tiên sinh khen anh chăm học mà không biết người ở đâu. Tiên sinh bèn bảo người theo anh ta xem về đâu. Thấy anh ta đến bên đầm Cung Hoàng thì biến mất, qua đó biết anh ta là thuỷ thần. Gặp nam đại hạn, sau khi buổi học an, tiên sinh gặp anh học trò kia bảo: “trời ra tai hạn hán, thực ra không dám trái ý, nhưng mắt thấy dân địa phương khổ cực không khỏi chạnh lòng, nếu anh có pháp thuật, anh giúp thầy cứu dân!” Người học trò kia không dám trái lệnh thầy, bèn mài mực đặc, ra sân hoà với nước mà rẩy. Một chốc quả nhiên mưa to, anh từ biệt thầy ra về. Hôm sau có một con giải to lớn, nổi trên hồ. Tiên sinh khóc thảm thiết, sai người thu lượm chôn cất, nay mộ vẫn còn.
Truyện này có lẽ là nói đạo đức của tiên sinh, đã cảm động đến cả thần linh. Biết loại chuyện như vậy là quái đản, nhưng đến cùng, nhân đó vẫn có tên một từ (ao Giải) xem phụ như thực, nếu bớt phần ma quái, nó cũng là chuyện bàn về tôn chỉ luận đạo dạy người của tiên sinh