Cùng một hệ thống với bát hương là những cây đèn. Hiện nay chưa tìm được những cây đèn của thời Lý, thời Trần và thời Lê sơ, những cây đèn cổ nhất còn lại tôi nay, được làm bằng gốm thường chỉ là sản phẩm của lò Bát Tràng, mang niên đại nửa cuối thế kỷ XVI. Chúng đã là sản phẩm của nghệ thuật thương mại. Cây đèn cao hơn 60cm, phần dưới tròn dầy thót cổ chân, phần trên nhỏ, toàn bộ cây đèn gần như chiếc lọ độc bình.
Tìm hiểu về đèn bàn thờ
Có lẽ do phần trên hay bị gãy, nên để tiện “đóng gói, chuyên chò”, người ta đã tách hẳn phần trên với phần dưới trong cách thức lắp ghép. Vì thế mà hiện nay ở một và di tích trên bàn thờ chỉ còn phần dưới với cái ngông liên kết. Trong kho của Bảo tàng Lịch sử, Bảo tàng Mỹ thuật hiện vẫn còn hai dạng cây đèn này. Đây là những cây đèn thuộc dạng gốm lớn được trang trí khá kỹ, men trắng vẽ màu men chàm, đề tài chủ yếu là những cánh sen,trong lòng cánh vẽ hoa cúc và hệ thống vân xoắn cân đối, phần bụng đèn vẽ mây cuộn và rồng, nhiều khi thay cho con rồng vẽ là một con rồng được làm theo khuôn rồi dán vào, vì thế rồng có màu trắng và không có men.
Trong trường hợp này rồng bao quanh gần hết vai đèn, vì thế nó trở nên rất dài. Niên đại của đèn thường được ghi ngay trên thân, đôi khi có cả tên chùa và tên người làm. Phần trên của đèn gần như một trụ loe hai đầu cũng được vẽ bằng màu men chàm để trang trí, trên cùng là đĩa đèn, phần nhiều được buông một đường điểm cánh sen vuông. Đèn của thời Mạc đẹp và có nhiều loại, những loại nhỏ cao khoảng 40 cm thường được làm nguyên khối .v.v… Dạng cây đèn kiểu này ít được tái hiện vào các thời gian sau. ở thế kỷ XVII có nhiều cây đèn rất đẹp, đế đèn là một lân nằm quỳ, mặt quay ra, trụ đèn vuông với 4 cạnh nổi gò giật cấp. Đôi khi trên hai thành của trụ được ghi tên chùa và tên tập thể công đức. Phần lòng cột thường được chạm nổi hình rồng hoặc linh thú, đỉnh của trụ là một số đường gờ nở ra với các đường diềm lá sòi, cũng có khi kết dạng chân quỳ như một hình thức bệ cho chiếc bát đựng dầu ở bên trên.
Cây đèn ở thế kỷ XVIII, phần nào còn giữ được phong cách của thế kỷ XVII, song vào cuối thế kỷ phần nhiều chúng được thay bằng chất liệu đồng và không khác những cây đèn hiện tại là bao. Nhiều cây đèn bằng đồng được kết hợp với hình hạc đứng trên rùa. Trong tư cách đó con hạc coi như tầng trên gắn với yếu tố dương, con rùa ở tầng dưới gắn với yếu tố âm, tạo nên một hợp thể vững bền. Từ lưng hạc là một cụm hoa lá và nụ sen mọc lên, riêng một cọng lá sen được chạy uốn cong cho hạc ngậm, còn chiếc lá vượt cao để trở thành đĩa đèn. Trong trường hợp này chúng ta có thể hiểu: hạc là con chim của thế giới thần linh, nhất là với thế giới Phật, nó biết dùng giọng dịu hòa để giảng về đạo pháp, đĩa đèn và lá sen được coi như ánh sáng của giáo lý truyền tới cho chúng sinh, giáo lý của đạo pháp được kết tụ lại trở thành dòng nước cam lồ hay dòng móc ngọt chảy qua cuống sen mà tràn về trần gian.
Ở thế kỷ XIX – XX, ngoài bộ tâm sự (đỉnh và hai cây đèn) nhiều khi người ta còn bầy trên bàn thờ bộ ngũ sự (thêm hai lọ hoa, đồng nhất chất liệu với tam sự, thường bằng đồng). Với chất liệu đồng, bộ tam sự và ngũ sự thường được thể hiện từng chiếc với nhiều cấp, theo cách nở ra thót vào, nhằm đạt được hiệu quả nghệ thuật về hình khối nhiều hơn là trang trí (như bộ ngũ sự của đền Quan Thánh là một ví dụ). Chất liệu gỗ được thể hiện muộn hơn chút ít, tuy chưa phổ biến (như đỉnh gỗ của đền Đại Lộ – Thường Tín – Hà Tây). Chắc chắn là những hình thức đó, nhất là đỉnh cao hai tầng với bốn chân quỳ đã chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Trung Hoa, nhưng được đơn giản hóa.
Bàn thờ của chùa, đền, đình, miếu v.v… nhiều hay ít đều được bày các loại đồ thờ như kể trên. Song càng ngày nhu
cầu về tín ngưỡng càng mở rộng thì ý thức về các đồ thờ chỉ còn giữ lại dưới sự biểu hiện của lòng kính trọng mà quên dần ý nghĩa gốc, vi thế người ta đặt lên bàn thờ nhiều đồ thờ theo cảm tính. Có bàn thờ đã được xếp tới hai, ba bộ mâm bồng to nhỏ khác nhau để đặt đồ lễ. Hoặc tùy theo vị thần, tùy công trạng và sự tích mà người ta đặt lên bàn thờ những hiện vật thích ứng. Trong hội lễ, nhiều khi trước bàn thờ chính còn có một bàn thờ phụ để đồ lễ tam sinh hoặc các thứ khác. Theo quan niệm của người xưa, thần gắn với tầng trên nên thường có thân hình to lớn, vì thế để ngài chứng lễ người ta đã đặt cả những ống đựng đũa của thần. Trong ống thường có mười chiếc đũa được sơn đỏ, khá to và dài từ 50 đến 60cm … Với những vị thần của làng xã, ngoài những đồ thờ thông thường bày trên bàn thờ còn có những ngai bài vị, những hộp chứa khăn áo mũ giày, hàng văn, giá kiếm… đôi khi còn bày phía trước một bộ chấp kích (nhỏ đặt trên bàn thờ, to đặt ở giá trước bàn thờ), để tạo sự uy nghi còn bày: tàn, tán, lọng, quạt vả, lỗ bộ, bát bửu, biển rước…
Để tiện cho việc theo dõi các đồ thờ kể trên chúng tôi xin lấy những mẫu ỏ tại các di tích cụ thể, rồi từ đó liên hệ tới các hiện vật liên quan.