Tại cửa Ô Quan Chưởng, bên tường phía Bắc có gắn một tấm bia khắc năm 1882 ghi lệnh của Tổng đốc Hoàng Diệu cấm lính sách nhiễu nhân dân.
Ô Quan Chưởng- Cửa ô còn sót lại của Hà Nội Cổ
Trong sách “Hà Nội giai đoạn 1873 – 1888” của André Masson – lưu trữ viên của Sử lưu trữ và thư viện Đông Dương đã viết: “Điểm làm Hà Nội 1873 khác với Hà Nội hiện nay trước hết là ở những công trình bảo vệ của nó. Đó là những tường vây hoặc các cổng chia cắt nhỏ các phố ra… khu phố buôn bán được bảo vệ bằng nhiều cổng trong đó hiện nay chỉ còn cổng Jean Dupuis… Theo ghi chép, cổng được xây dựng năm 1749 đề phòng thú kinh thành trước sự nổi dậy của Nguyễn Hữu Cáu. Cổng có một cửa chính trên có tháp canh và hai cửa phụ ở hai bên, phía trên để trống nhưng có lan can trang trí. Trên tường cửa chính gắn một tấm bia đề năm Tự Đức – thứ 34 (1881) cấm lính gác đòi tiền người qua lại”

Nhìn lại lịch sử ta được biết thời kỳ vua Lê niên hiệu Cảnh Hưng thứ 10, chúa Trịnh đã cho đắp thành đại đô bao quanh Thăng Long để phòng chống nghĩa quân. Tại tường thành có trổ cửa ngách để dân ra vào, gọi là cửa ô Năm Cánh Hưng thứ 46 (1785) sửa lại cửa ô ở điểm Thanh và đến năm Gia Long thứ 3 (1804) xây lại theo quy cách còn đến ngày nay.
Cửa ô đó, “năm Minh Mệnh mở cửa Đông Hà con đường cái quan chạy thẳng ra, từ đấy đối là hộ, là phố, còn xưa kia cũng quây quần xúm xít như một xóm quê” (xem văn bia Văn chí Thanh Hà – tuyển tập văn bia Hà Nội). Như vậy ta có thể biết được, trước khi có cái tên “Cổng Jean Dupưis” do người Pháp đặt ra, tại cổng này đã có tên là cửa Đông Hà. Hiện nay ba chữ “Đông Hà Mòn” còn trên trán cửa cổng. Là một cổng ô được trổ ra từ bức thành bảo vệ kinh đô nên cấu tạo của cổng khác với những cổng thông thường. Từ cửa tò vò bên phía Thanh Hà. chui vào hầm và đi ngược lên 11 bậc, ta có thể nhận biết độ dày và độ rộng cửa bức thành năm xưa – Đó là những lát cắt tạo nên cửa Đông Hà với 3 khúc rời nhau. Hai khúc bên có độ dày rộng hơn khúc giữa. Điểm nối các khúc với nhau là tháp canh ứ giữa và tường hoa bên trên vòm cổng. Đây là cổng xây thời Lê hay thời Nguyễn – có nhà nghiên cứu cho là cổng đã xây lại năm 1817 (Nguyễn Vinh Phúc trong Đường phở Hà Nội) bởi căn cứ vào gạch ống sử và dâng cổng tương tự các cổng trong thành nội. Hãy để lịch sử và thời gian tìm ra sự thật, chúng ta hãy tìm hiểu thêm về nét khác: cổng ô có tên là Đông Hà Môn, người Pháp lại đặt tên mới là Porte Jean Dupuis, nhưng với dân phố Thanh Hà thì đây là cửa Ô Quan Chưởng. Tại sao như vậy? Theo truyền thuyết năm 1873. khi Jean Dupuis dàn quân Pháp đánh Hà Nội lần thứ nhất, tại cửa ở này có viên Chưởng cơ và một đội lính dưới quyền đã chiến đấu đến người cuối cùng để bảo vệ thành Hà Nội. Người dân thương tiếc ông và các nghĩa sĩ, đã gọi đây là cửa Ô Quan Chưởng. Trân trọng sự hy sinh của tiền nhân, chúng ta vẫn dùng tên cửa Ô Quan Chưởng và xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia để bảo vệ trường tồn nơi này.
Bây giờ phố Thanh Hà còn đó, phố Hàng Chiếu còn đó, chỉ khác là bến sông đã lùi ra ngoài bãi Phúc Tân. Người dân phố Hàng Chiếu kinh doanh nhiều mặt hàng, xe máy, ô tô qua lại nườm nượp. Mỗi khi qua cửa chính ta lại thấy ở tường bên phải tấm bia “Thán cảm khư tệ” do tổng đốc Hoàng Diệu lệnh cho huyện lại, lý dịch huyện Thọ Xương, phố Thanh Hà phải nghiêm trị bọn phu Điểm và lý dịch thông đồng với nhau nhũng nhiễu dân qua lại cửa ỏ. Tấm bia này lập năm Tự Đức thứ 34 (1881), trước khi Hoàng Diệu tuẫn tiết theo thành Thăng Long trong đợt Pháp đánh Hà Nội lần thứ hai. Cả hai sự việc để lại cho dời một tấm gương trung liệt – thanh liêm.
Bây giờ mọi người buôn bán qua lại tự do, mấy bà ở phố Thanh Hà vẫn thường lệ ngày sóc vọng đi qua đường hầm lên vọng lầu thắp hương, cúng vong linh những người đã hy sinh vì Hà Nội.
Cổng làng Ô Quan Chưởng còn mãi như một chứng tích của thành lũy phía ngoài, bảo vệ kinh thành Thăng Long. Nhiều người đã chụp ảnh Ô Quan Chưởng lưu lại cho ngày nay, nếu chúng ta sưu tầm anh đó, cũng thấy được một bước đi dài của lịch sử.
Có thể bạn quan tâm: Cổng làng Hà Nội xưa và nay