Đền Bà Triệu là một di tích và một thắng cảnh của tỉnh Thanh Hóa. Đền nằm ngay trên đường quốc lộ 1A. Khu lăng mộ và đền thờ Bà Triệu nằm trên địa phận làng Phú Điền, xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa. (Phú Điền xưa gọi là Kẻ Bồ, Bồ Điền). Từ thành phố Thanh Hóa theo đường quốc lộ 1A – Nam – Bắc, đến núi Bân Sơn (bên phải) là ta đã được chiêm ngưỡng toàn cảnh đền thờ – Lăng Bà Triệu.
Đền Bà Triệu Thanh Hóa ra đời trong hoàn cảnh nào
Đền Bà Triệu tựa lưng vào dãy núi Bân (tên chữ là Bân Sơn) mặt đền ngoảnh hướng Tây (trống ra đường Quốc lộ I và đường sắt xuyên Việt), đối diện với dãy núi Trường Sơn, nơi có lăng mộ Bà Triệu và ba vị tướng của bà.
Tương truyền đền Bà Triệu được xây dựng từ thời Tiền Lý (Lý Nam Đế). Khi nhà vua đem quân đi dẹp giặc ở phương Nam, qua đây trú quân lại một đêm. Được Bà Triệu báo mộng giúp vua, nên ngày thắng giặc trở về, nhà vua đã cho sửa sang lại lăng mộ và lập đền thờ Bà. Lúc đầu, đền nhỏ bé lợp tranh, trải qua nhiều đời tu sửa mới nguy nga, cao đẹp như hiện nay.
Bà Triệu (226 -248) được nhân dân và sử sách gọi bằng nhiều tên khác nhau: Triệu Au, Triệu Thị Trinh, Triệu Trinh Nương, Lệ Hải Bà Vương. Theo dã sử, Bà Triệu sinh ngày 2 tháng 10 năm Bính Ngọ (226). Quê hương bà ở vùng núi Quân Yên quận Cửu Chân, Thanh Hóa (xã Định Công, huyện Thiệu Yên ngày nay). Bà là em gái Triệu Quốc Đạt, một huyện lệnh có thế lực trong vùng. Cha, mẹ mất sớm, bà ở với anh. Năm 20 tuổi chưa lấy chồng bà đã chiêu nạp trai tráng trong vùng, luyện tập võ nghệ. Sau hợp binh với anh nổi dậy khởi nghĩa. Khi Triệu Quốc Đạt mất, bà được nghĩa quân tôn làm chủ soái. Mặc dầu vua nhà Ngô phải huy động đại quân và cử viên danh tướng Lục Dận để đàn áp cuộc khởi nghĩa Bà Triệu nhưng cũng phải mất gần ba năm, qua nhiều trận giao tranh quyết liệt với những tổn thất nặng nề, chúng mới đẩy lùi được cuộc khởi nghĩa Bà Triệu. Bà Triệu tự vẫn trên núi Tùng Sơn ngày 21 tháng 2 năm Mậu Thìn (248). Đền thờ Bà Triệu cũng là nơi trưng bày, lưu giữ được nhiều đại tự, câu đối, nhiều đạo sắc phong của các triều vua, nhiều thơ ca kim cổ và đồ thờ (long ngai, giao kỳ, bài vị, tàn quạt, voi, ngựa, gươm giáo…). Bà Triệu đã 30 lần có sắc phong, với hàng trăm mỹ tự và danh hiệu khác nhau như: “Bậc chính phu nhân”, “Anh liệt phu nhân”, “Hùng tài phu nhân”, “Hồng âm, mậu đức đại vương” v.v… Câu đối về Bà Triệu cũng có rất nhiều như:
” Giết Lục Dận lừng trời Việt Đuổi Đặng Tuân khét đất Ngô”.
(Lục Dận và Đặng Tuân là tướng quân Đông Ngô).
– “Đầu voi, miệng cọp, vì nước quên mình Trời khéo để làm gương dấu tích Trưng Vương là thế đó.
Con Lạc, cháu Hồng, nấy nhà biết mặt, người thử xem có phải vốn dòng Triệu đế hay còn đây”.
(Triệu Đế là vua họ Triệu – chỉ Triệu Quang Phục)
- “Hoành quang dương hổ dị Đối diện bà Vương nan”.
Tạm dịch:
(Giang tay chống hổ dễ Giáp mặt bà Vương gay).
- “Nữ thả huy qua, danh chân cổ Tượng đầu trước kích, tích lưu kim”.
Tạm dịch:
(Tay gái vung dao lên nối trước Đầu voi đạp guốc, dấu còn nay).
- “Thiên thượng tinh anh, vạn nhân thanh sơn hiển thánh
Nhữ trung hào kiệt, thiền thu bạch tượng truyền thần”.
Tạm dịch:
(Tinh anh ở trên trời, vạn bậc non xanh hiện thành Hào kiệt trong nữ giới, nghìn thu voi trắng truyền thần).
Thơ ca nói về Bà Triệu có khá nhiều, chẳng hạn được sưu tầm và lưu giữ tại di tích đền thờ Bà ở Phú Điền.
- “Cao một tương cả mười vừng Tóc chấm ngang vai, vú chấm lưng Hợp chúng rừng xanh ca náo nức Cỡi đầu voi trắng tiếng vang lừng
Việt dài trở vây tan dàn lục Ngôi cả lăm le học họ Trương Vì biết anh hùng duyên dính mấy Cớ chi Bắc quốc dám hung hăng”.
Hồng Đức (Lê Thánh Tông)
- “Phải đánh vì chưng giặc đến nhà Cờ đề chữ Triệu giục voi ra
Giận nòi giống Việt về tay nó Cho tướng quân Ngô biết mặt Bà Tam quốc nhân tài đây có một Nhị Trưng nữ chúa nữa là ba Còn trời, còn đất, cồn non nước Còn chuyện anh hùng gái nước ta”.
(Khuyết danh)
Đặc biệt có mấy câu của Bác Hồ:
- Tỉnh Thanh Hóa có một bà Tên là Triệu Au, tuổi đà đôi mươi Tài năng dũng cảm hơn người
Khởi binh cứu nước muốn đời lưu phương
Phụ nữ ta chẳng tầm thường
Đánh Đông, dẹp Bắc làm gương để đời.
(Lịch sử nước ta – 1942 – Hồ Chí Minh)
Hàng năm trong vùng, nhân dân tổ chức giỗ Bà vào ngày 21 tháng 2 âm lịch. Nhưng ngay hôm mồng một Tết, ở xã Phú Điền (trước đây) đã có tục lệ đặc biệt: Ăn Tết nguội.
Tục này diễn ra vào khoảng trưa ngày mồng một. cỗ cúng giao thừa xong để lại. Sáng mồng một, cả nhà đi chúc tụng bà con đâu đó rồi, trở về sau lúc chính ngọ thì bóc bánh dọn thịt ra ăn, không nấu nướng thức ăn gì mới cả.
Những người am hiểu giải thích rằng; Tục ăn nguội này là để tưởng nhớ tới cuộc hành quân của Bà Triệu. Họ lý luận rất giản đơn, từ sáng sớm, Bà Triệu xuất quân đi đuổi giặc. Dọc đường, chỉ có lương khô, đồ nguội, không thể nấu nướng gì giữa lúc hành quân. ăn nguội là hợp lý. Đến chiều tối, khi đã quét sạch lũ giặc ra khỏi vùng, quân sĩ mới trở về, ăn mừng thắng lợi. Lúc ấy thì bếp đỏ lửa, đồ sốt đồ nóng sẽ được mang tới khao quân. Và quả thực, dân Phú Điền giữ đúng tục này: buổi trưa ăn nguội, buổi chiều, bữa ăn tối ngày mồng 1 thì rất là thịnh soạn.
Đừng bỏ lỡ: Lịch sử ra đời Đền Độc Cước Sầm Sơn Thanh Hóa